Bò giống

CÔNG TY CỔ PHẦN BÒ VIỆT là đơn vị chuyên cung cấp bò giống thịt chất lượng cao với nhiều chủng loại.
Với kinh nghiệm hơn 10 năm trong lĩnh vực nghiên cứu, chăn nuôi và cung cấp các loại Bò giống thịt. Công ty Cổ phần Bò Việt chúng tôi đã chọn ra những chú Bò giống chất lượng cao, mang lại hiệu quả kinh tế cho ngành chăn nuôi ở các địa phương trên cả nước.

Bò Brahman
Bò Brahman
Bò Braman là một loại bò thịt thuộc giống bò Zebu có nguồn gốc từ Ấn Độ (Bos primigenius indicus). Bò được đặt tên theo vị thần Bà La Môn tôn kính của tôn giáo Ấn Độ. Đây là loại bò thịt nhiệt đới, được nuôi rộng rãi ở các nước nhiệt đới và cận nhiệt đới trong đó có Việt Nam. Ở Úc, người dân nuôi bò Brahman màu trắng là chủ yếu để sản xuất thịt bò, còn nuôi Brahman màu đỏ chủ yếu để xuất cho các nước Châu Á do các nước này chuộng màu đỏ hơn. Bò Brahman nổi tiếng là giống bò thịt nhiệt đới, được nuôi rộng rãi ở các nước nhiệt đới và cận nhiệt đới. - Bò Braman là một loại bò thịt thuộc giống bò Zebu có nguồn gốc từ Ấn Độ (Bos primigenius indicus). - Đây là loại bò thịt nhiệt đới, được nuôi rộng rãi ở các nước nhiệt đới và cận nhiệt đới trong đó có Việt Nam. - Bò có ngoại hình thể chất chắc, khoẻ mạnh, hệ cơ phát triển, u vai phát triển, tai to và cụp xuống. Khối lượng. Ðặc điểm: + Màu sắc: trắng, xám nhạt, đỏ, đen hoặc trắng đốm đen, đực trưởng thành màu lông sậm hơn con cái. + Là giống lớn con, ngoại hình đẹp, thân dài, lưng thẳng, tai to, u, yếm phát triển. - Bò đực trưởng thành: 700 - 1000 kg. - Tốc độ tăng trưởng nhanh: 650 – 800 gram/ngày.- Bò cái trưởng thành: 450 - 600 kg. - Giai đoạn vỗ béo bò tăng trưởng: 1200 - 1500gram/ngày. - Khoảng cách giữa 2 lần đẻ: 12 - 14 tháng. - Động đực lần đầu: 15 -18 tháng tuổi. - Tính mắn đẻ, dẽ đẻ, lành tính, nuôi con giỏi. - Kháng ve, ký sinh trùng đường máu, không mắc các bệnh về mắt, móng. - Bò Brahman có thể lực tốt, thích nghi cao với điều kiện nhiệt đới, khô hạn. - Khả năng sinh sản, sản xuất vẫn duy trì ở nhiệt độ cao, thời tiết khắc nghiệt cũng như vùng đồng cỏ khô hạn khi mà các giống bò khác bị giảm năng suất. - Việc đầu tư chăm sóc ở mức tối thiểu. * Ưu điểm: - Ưu điểm nổi bật của giống này là năng suất thịt cao hơn hẳn các giống bò có u khác. - Kháng ve, ký sinh trùng đường máu, không mắc các bệnh về mắt, móng. - Bò Brahman có thể lực tốt, thích nghi cao với điều kiện nhiệt đới, khô hạn. Khả năng sinh sản, sản xuất vẫn duy trì ở nhiệt độ cao, thời tiết khắc nghiệt cũng như vùng đồng cỏ khô hạn khi mà các giống bò khác bị giảm năng suất. Việc đầu tư chăm sóc ở mức tối thiểu. * Nhược điểm: Nhược điểm của giống này là hiệu quả sinh sản chưa cao, bò cái tơ có tuổi phối giống lần đầu muộn (trên 24 tháng), khoảng cách lứa đẻ 15-17 tháng/lứa. So với các giống bò chuyên thịt ôn đới thì chất lượng thịt cũng chưa cao do thớ thịt còn thô và mùi vị chưa thơm bằng bò thịt ôn đới.
Bò Angus
Bò Angus
Toàn thân bò có màu đen và thường chỉ có một màu đồng nhất,niên mạc mũi cũng có màu đen. Ít có bò Angus màu đỏ. Bò thường không có sừng vì trong thông tin di truyền của giống bò này thì gene không sừng là gene trội. Con lai F1 giữa bò Angus với giống bò khác luôn luôn không có sừng. Bò có chất lượng thịt tốt, có vân mỡ xen kẽ trong thớ thịt giúp thịt mềm và béo. Trọng lượng bê sơ sinh: 24 – 30 kgBò thành thục sớn, hiệu quả sinh sản cao. Khuyết điểm của giống này là khối lượng không lớn và tăng trọng chậm. Bò cái trưởng thành năng 550–650 kg, bò đực 800–950 kg. Nuôi thịt lúc 15 tháng tuổi bê đực đạt 450– 460 kg, bê cái 350–450 kg. Tỷ lệ thịt xẻ bình quân 65 -67%. Bò thích hợp với vùng khí hậu ôn đới và nuôi chăn thả.
  • Trọng lượng 6 tháng tuổi: 150 – 180 kg
  • Bò đực lúc trưởng thành: 800 – 1000 kg
  • Bò cái lúc trưởng thành: 550 – 700 kg
  • Tốc độ tăng trưởng nhanh: 1000 gram/ngày
  • Tốc độ tăng trưởng lúc vỗ béo: 1000 – 2000 gram/ ngày
  • Tỷ lệ xẻ thịt: trên 70% (60% thịt + 40% xương)
Toàn thân bò có màu đen hoặc màu đỏ, thường được biết đến với tên gọi là Black Angus hoặc Red Angus. Bò Angus trưởng thành sớm, khoảng hai tuổi là có thể cho thịt. Bò thường không có sừng vì trong thông tin di truyền của giống bò này, gene không sừng là gene trội. Con lai F1 giữa bò Angus với giống bò khác luôn không có sừng. Nhìn chung, loại bò này có khả năng sinh sản cao và trưởng thành sớm, khoảng 2 tuổi có thể lấy thịt. Bò Black Angus chủ yếu được biết đến như một loại thực phẩm tươi, mang lại giá trị và chất lượng dinh dưỡng cao. Bò có chất lượng thịt tốt, có vân mỡ trắng xen kẽ trong những thớ thịt giúp thịt mềm và có vị béo dễ chịu, thịt màu đỏ tươi sáng. Ngoài ra, loại bò này có khả năng sinh sản cao và trưởng thành sớm, khoảng 2 tuổi có thể lấy thịt. Khuyết điểm của giống bò này ở khối lượng không lớn và tăng trọng chậm. Bò thích hợp với vùng khí hậu ôn đới và nuôi chăn thả. Bò Black Angus thơm ngon nhờ 4 yếu tố như điều kiện khí hậu, môi trường chăn nuôi, phương pháp chăn nuôi và chế độ dinh dưỡng. Hương vị chính là yếu tố quan trọng khi nói đến chất lượng của thịt bò. Chất lượng thịt mềm, ngọt và ngon tùy thuộc vào mức độ trưởng thành của con bò. Ngoài ra, nó còn phụ thuộc vào sự chính xác của độ tuổi, các chất, sự phân phối của các mô liên kết, độ dầy của tế bào cơ và số lượng phân phối chất béo đến các cơ. Hương vị, độ thơm ngon của giống bò ăn cỏ tự nhiên Black Angus này có lẽ chỉ đứng sau giống bò nổi tiếng Wagyu (hay bò Kobe). Chính lượng mỡ trong miếng thịt bò tạo nên mùi vị đặc trưng của thịt bò. Giống bò Black Angus được biết đến với lượng mỡ vừa đủ để tạo nên hương vị, độ mềm và vị ngon đặc biệt.
Bò Lai Sind
Bò Lai Sind
Bò Lai Sind là Là giống bò lai tạo từ con đực Red Sindhi thuần với bò cái vàng Việt Nam. Đây là loại bò có tỷ lệ dòng máu của bò Lia Sind do đó mang nhiều ưu điểm hơn so với các giống bò thông thường. Ưu điểm cụ thể là: mắn đẻ, nuôi con tốt, thích nghi được với điều kiện khí hậu nóng ẩm, ít bệnh, dễ nuôi, tính phàm ăn, kháng bệnh tốt và chịu được kham khổ. Nhờ những ưu điểm này mà bò Lai Sind hiện đang được nuôi rất phổ biến tại Việt Nam. Để nuôi bò Lai Sind cho hiệu quả cao nhất bà con cần biết rõ từ cách chọn con giống cho đến phương pháp chăm sóc bởi loại bò này cho năng suất khác với bò thông thường nên cách chăm sóc cũng khác nhau. Tất cả những phương pháp cần thiết để chăn nuôi bò Lai Sind tốt nhất đều được tổng hợp trong kỹ thuật chăn nuôi bò Lai Sind dưới đây mời bà con cùng tham khảo 1. Đặc điểm và ngoại hình Bò Lai Sind, bà con cần chọn những con có đặc điểm như sau: đầu hẹp, chán gồ, tai to cụp xuống, yếm có nhiều nếp nhăn kéo dài đến rốn, u vai nổi rõ, âm hộ có nhiều nếp nhăn, lưng ngắn, ngực sâu, mông dốc, bầu vú phát triển, đuôi dài, lông có màu vàng hoặc vàng sẫm cũng có con có vá trắng. cach - chon - giong - bo - lai -sind Giống bò Lai Sind đạt tiêu chuẩn 2. Tính năng sản xuất: Bò Lai sind sơ sinh có khối lượng đạt từ 17 -19kg, khi trưởng thành đạt 250 -350kg ở bò cái và 400 -450kg ở bò đực. Thời gian phối giống hợp lý nhất là khoảng từ 18 -24 tháng tuổi, sau 15 tháng đẻ 1 lứa. Bò Lai sind cho năng suất sữa khoảng 1200 – 1400kg/240 -270 ngày. Nếu là bò hướng thịt sẽ cho tỉ lệ thịt xẻ đạt 48 -49%. Bò này có khả năng cày kéo tốt. 3. Kỹ thuật nuôi bò lai Sind: Cách chọn con giống hợp với mục đích chăn nuôi (bò hướng thịt hoặc bò sinh sản) + Đối với bò hướng thịt: bà con chọn những con tốt, có thân hình vạm vỡ, mình tròn, mông vai phát triển và cần tìm hiểu rõ nguồn gốc cũng như tính năng sản xuất của đời bố mẹ. + Đối với bò sinh sản: chọn những con cái nhanh nhẹn, lông thưa, da mỏng, thuần tính, có sự hài hòa giữa các phần đầu và cổ, thân và vai; ngực sâu, rộng, bầu vú phát triển. Nuôi dưỡng và chăm sóc Tùy thuộc vào từng giai đoạn của bò để có cách chăm sóc và nuôi dưỡng khác nhau, cụ thể như sau: – Bò cái chửa: bổ sung lượng thức ăn đầy đủ dưỡng chất bao gồm cỏ tươi, rơm rạ, thức ăn tinh và muối. – Bò cái nuôi con: Ngoài những thức ăn trên, cần bổ sung thêm các thức ăn củ quả tươi và thức ăn tinh nhằm tăng khả năng tiết sữa nuôi con. – Bê con: từ tháng thứ 2 bắt đầu cho bê con ăn cỏ khô, đến tháng thứ 4 ăn cỏ tươi và củ quả đến tháng thứ 6 có thể cai sữa. Cho bê ra sân chơi vào những ngày nắng ấm để tăng cường sức đề kháng– Bê từ 6 – 24 tháng: đây là giai đoạn cần bổ sung mạnh các dưỡng chất từ các loại thức ăn như: cỏ tươi, ngọn mía, rơm rạ, cỏ ủ, dây khoai, tinh bột…đồng thời thường xuyên cho bò bê ra sân bãi thả khoảng 2 -4 tiếng/ngày. – Đối với bò hướng thịt trước khi xuất chuồng cần vỗ béo bằng thức ăn tinh như cám gạo, cám ngô, cám sắn… trước khi bán khoảng 90 ngày. Bò giết thịt đạt 250 -300kg ở tháng thứ 24 Công tác phòng bệnh Bò dễ mắc phải các bệnh tụ huyết trùng, lở mồm long móng do vậy cần thực hiện tốt lịch tiêm phòng theo quy định của ngành thú y. Ngoài ra đối với việc tẩy giun định kỳ cho bò bà con có thể dùng các loại thuốc đặc hiệu như: dùng thuốc tẩy giun Lêvamisol với liều lượng 1ml/8-10 kg trọng lượng bò hơi; thuốc tẩy sán DextilB với liều 1 viên thuốc dùng cho 75 kg trọng lượng bò hơi, phòng trị các loại bệnh ký sinh trùng đường máu cho bò.
Bò rừng
Bò rừng
Bò tót nhìn giống như trâu ở phía trước và giống như bò ở phía sau. Bò tót là loài thú có tầm vóc khổng lồ. Tại Ấn Độ và Mã Lai, bò tót được xem là biểu tượng của sức mạnh và sự cường tráng. Một con bò đực trưởng thành cao trung bình 1,8-1,9m, dài trung bình khoảng 3 m. Khối lượng trung bình của bò tót Ấn Độ vào khoảng 1,3 tấn, bò tót Mã lai khoảng 1 tấn, và bò tót Đông Nam Á 1,5 tấn. Những con to có thể cao tới 2,1 - 2,2m, dài 3,6 - 3,8m và nặng hơn 1,7 tấn. Với vóc dáng này, bò tót là loài thú lớn thứ 3 về chiều cao, chỉ xếp sau hươu cao cổ và voi, chúng cao hơn cả 5 loài tê giác. Về khối lượng, bò tót đứng thứ 5 trên cạn, sau voi, tê giác trắng và tê giác Ấn Độ và hà mã. Con cái thấp hơn con đực khoảng 20 cm và nặng khoảng 60 - 70% khối lượng con đực. Bò đực có màu đen bóng, lông ngắn và gần như trụi hết khi về già. Bò cái có màu nâu sẫm, những cá thể sống ở địa hình khô và thưa còn có màu hung đỏ. Bò đực và cái đều có sừng. Sừng to, chắc, và uốn cong về phía trước. Chiều dài trung bình của sừng thường từ 80 – 85 cm ở bò đực, sừng bò cái ngắn, nhỏ hơn và uốn cong hơn. Trên trán, giữa 2 gốc sừng là 1 chỏm lông, thường có màu vàng. Mũi sừng có màu xanh xám, chuyền dần sang xám đen rồi đen bóng ở những chú bò già. Gốc sừng có màu xám đen, và có những lằn rãnh nằm ngang, gọi là răng. Phần giữa gốc sừng và mũi sừng có màu vàng nhạt. Đuôi chỉ dài ngang đến khuỷu chân sau. Ở cả 4 chân, từ khuỷu chân trở xuống có màu trắng, trông giống như đi tất trắng. Con đực còn có 1 luống cơ bắp chạy dọc sống lưng đến quá bả vai, và một cái yếm lớn trước ngực, tạo ra một dáng vẻ rất kỳ vĩ. Về mặt di truyền, trước đây người ta cho rằng chúng có quan hệ họ hàng gần với trâu, nhưng các phân tích gen gần đây cho thấy chúng gần với bò hơn, với bò chúng có thể sinh ra con lai có khả năng sinh sản. Người ta cho rằng họ hàng gần nhất của chúng là bò banteng và cho rằng chúng có thể sinh ra con lai có khả năng sinh sản.
x